Di Tích Lịch Sử Vùng Đông Nam Bộ
Địa chỉ: Am Bà là miếu thờ Thánh Mẫu Thiên - Y - A - Na, thuộc địa phận thôn Phò An, tiếp giáp với làng Dương Nỗ, cách nhà lưu niệm thời niên thiếu của Chủ tịch Hồ Chí Minh khoảng 300m về phía Đông và đường tỉnh lộ Huế - Thuận An gần 100m về phía Bắc.
Check in sống ảo tại các địa điểm Thánh Địa Mỹ Sơn
Nếu bạn là một người đam mê sống ảo, thì Thánh Địa Mỹ Sơn chính là địa điểm lý tưởng để tạo ra những bức ảnh nghìn like trên Facebook. Dù đứng ở bất kỳ đâu trong thánh địa, bạn đều có thể chụp được những bức ảnh đẹp với background đậm chất lịch sử và văn hóa.
Ngoài ra, bạn đừng ngần ngại việc check-in tại Thánh Địa Mỹ Sơn với trang phục truyền thống của người Chăm Pa. Sự nổi bật và tinh tế của những bộ trang phục này không chỉ tôn lên vẻ đẹp của bạn mà còn tạo ra những bức ảnh độc đáo và đáng nhớ. Việc kết hợp trang phục truyền thống với nền kiến trúc cổ kính tại Thánh Địa Mỹ Sơn sẽ tạo ra những khoảnh khắc để đời đầy ấn tượng.
Khám phá con đường rộng 8m dẫn đến trung tâm khu di tích Thánh Địa Mỹ Sơn
Còn đường này được một chuyên gia người Ấn Độ phát hiện ra trong quá trình trùng tu và phục chế lại các tháp đền. Con đường này có chiều rộng là 8m, hai bên là hai bức tường nằm song song được chạm khắc hoa văn một cách tinh tế và được chôn trong lòng đất với độ sâu 1m.
Theo các tư liệu lịch sử cho biết, chỉ có vua chúa, hoàng tộc hoặc những người quyền lực cao mới được phép đi trên con đường này. Đây cũng chính là con đường dẫn trực tiếp tới các khu tháp lớn thường được sử dụng để tổ chức các buổi lễ lớn của người Chăm cổ xưa.
Một số lưu ý khi đến tham quan Thánh Địa Mỹ Sơn
Khi đến thăm quan di sản văn hóa Thánh Địa Mỹ Sơn, bạn cần lưu ý những điều quan trọng sau đây:
Vừa rồi, Drt.danang.vn đã chia sẻ chi tiết về những điều thú vị tại khu di tích Thánh Địa Mỹ Sơn. Nếu bạn là một người yêu thích khám phá những di tích lịch sử, đào sâu về văn hóa cổ của người Chăm Pa, thì Thánh Địa Mỹ Sơn chắc chắn là địa điểm mà bạn không thể bỏ qua. Hãy lên kế hoạch khám phá Thánh Địa Mỹ Sơn ngay hôm nay để trải nghiệm những điều thú vị và độc đáo tại đây nhé.
ĐỒNG TIỀN VIỆT NAM DƯỚI THỜI ĐINH - TIỀN LÊ (THẾ KỶ X)
Năm 968, sau khi dẹp xong “loạn 12 sứ quân", đất nước thu về một mối Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế và cho định đô ở vùng đất Hoa Lư (nay thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình), đặt tên nước Đại Cồ Việt. Với cương vị là người đứng đầu đất nước độc lập tự chủ, vua Đinh Tiên Hoàng bắt đầu xây dựng một chính thể quân chủ mới. Tổ chức bộ máy chính quyền của nhà nước quân chủ độc lập dần được hình thành. Năm 979, Đinh Tiên Hoàng và con trai trưởng Đinh Liễn bị ám hại. Đinh Toàn mới 6 tuổi lên nối ngôi. Thập đạo tướng quân Lê Hoàn được cử làm phụ chính. Lúc này nhà Tống đang lăm le xâm chiếm Đại Cồ Việt. Vì thế, năm 980, Lê Hoàn được quân sĩ và thái hậu Dương Vân Nga đồng tình ủng hộ, suy tôn lên ngôi vua.[1]
Các vua nhà Đinh - Tiền Lê khi lên ngôi hoàng đế đều cố gắng thực thi các chính sách phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp. Nhà nước đã xây dựng một số xưởng chuyên sản xuất các sản phẩm thủ công cần thiết như: xưởng đúc tiền, rèn vũ khí, xây dựng cung điện…Thời kỳ này, hoạt động trao đổi buôn bán giữa các vùng miền trong nước khá nhộn nhịp và phát triển. Chợ mọc lên ở nhiều nơi. Để góp phần vào sự phát triển kinh tế thương nghiệp, từ đầu thời nhà Đinh nhà nước đã cho đúc tiền “Thái Bình hưng bảo” - đồng tiền đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Năm 984 vua Lê Đại Hành lại tiếp tục cho đúc tiền “Thiên Phúc trấn bảo”.
Tiền thời Đinh - Tiền Lê làm từ chất liệu kim loại, hình tròn, có viền xung quanh, chính giữa có lỗ vuông. Tiền được viết bằng chữ Hán ở cả hai mặt, chữ viết nổi được thiết kế đọc chéo. Mặt trước có 4 chữ “Thái Bình hưng bảo” (太平興寶), “Thiên Phúc trấn bảo” (天 福 鎮 寶). Mặt sau của đồng tiền viết chữ Đinh (丁), chữ Lê (黎) là tên triều đại sản xuất. Tiền “Thái Bình hưng bảo” chữ “Thái Bình” chỉ niên hiệu của vua Đinh Tiên Hoàng với khát vọng đất nước thái bình, an yên, “hưng bảo” thể hiện mong muốn cho đất nước được hưng thịnh, trường tồn và phát triển. “Thái Bình hưng bảo” có ý nghĩa ước mong những điều tốt đẹp cho đất nước, khẳng định nền độc lập tự chủ của dân tộc ta không chỉ ở lĩnh vực chính trị, ngoại giao, văn hóa mà còn cả trong lĩnh vực kinh tế. Tiền “Thiên Phúc trấn bảo”, chữ “Thiên Phúc” chỉ niên hiệu của vua Lê Đại Hành với hàm ý được phúc trời ban, “trấn bảo” nghĩa là giữ gìn, bảo vệ thành quả đã đạt được và đưa đất nước tiến lên những bước vững chắc.
[1] Đại Việt sử ký toàn thư, Hoàng Văn Lâu - Ngô Thế Long dịch (1998), tập 3, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
Tiền “Thái Bình hưng bảo” (太平興寶)
Tiền “Thiên Phúc trấn bảo” (天 福 鎮 寶)
Qua đó, chúng ta có thể hiểu chữ “trấn bảo” trên đồng tiền “Thiên Phúc trấn bảo” thời Tiền Lê mang một hàm ý sâu sắc của bậc tiền nhân về việc giữ gìn, bảo vệ và kế thừa sự nghiệp của nhà Đinh. Vua Lê Đại Hành đã tiếp tục xây dựng và bảo vệ đất nước, đưa Đại Cồ Việt thành quốc gia hưng thịnh lúc bấy giờ. Vua Lê tiếp tục xây dựng nhà nước quân chủ, ban hành các luật lệ, chú trọng phật giáo, phát triển kinh tế, văn hóa, đặc biệt ưu tiên nông nghiệp, thương nghiệp, mở mang hệ thống các tuyến đường thủy, đường bộ. Các công trình đào sông thời Tiền Lê do vua Lê Đại Hành khởi xướng đã mở đầu cho quá trình phát triển của hệ thống giao thông đường thủy của nước ta dưới thời phong kiến ở thế kỷ X[2]. Điều đó có ý nghĩa thúc đẩy ngành kinh tế thương nghiệp ngày càng phát triển và đồng tiền được lưu hành rộng rãi trong xã hội. Sự phát triển của hệ thống giao thông, của ngành kinh tế thương nghiệp đã thể hiện sự lớn mạnh của một quốc gia độc lập tự chủ trong việc thực hiện chức năng quản lý các công trình giao thông, thương mại. Thời kỳ này kinh tế, văn hóa, xã hội đến việc buôn bán giao thương rất phát triển, đời sống nhân dân được ấm no, sung túc, đất nước thịnh vượng.
Sự ra đời của đồng tiền Việt Nam dưới thời Đinh - Tiền Lê ngay trong thời kỳ đầu sau khi giành được độc lập không chỉ khẳng định ý thức dân tộc, tính độc lập tự chủ của Nhà nước Đại Cồ Việt mà còn góp phần không nhỏ vào sự phát triển nền kinh tế của đất nước, đặc biệt ngành kinh tế thương nghiệp ở thế kỷ X. Chứng tỏ ngoài việc trao đổi buôn bán bằng hình thức vật đổi vật, đồng tiền sử dụng trong lưu thông thời Đinh - Tiền Lê ngày càng phổ biến.
Đồng tiền “Thái Bình hưng bảo” và “Thiên Phúc trấn bảo” thời Đinh – Tiền Lê hiện đang được trưng bày phục vụ du khách tham quan tại nhà trưng bày khảo cổ học thuộc Khu Di tích lịch sử - văn hóa đặc biệt Cố đô Hoa Lư. Nhà trưng bày thu hút khá đông khách du lịch trong nước và quốc tế đến tham quan bởi nơi đây bảo lưu, giữ gìn rất nhiều hiện vật có giá trị từ thế kỷ X như: tiền “Thái Bình hưng bảo”, “Thiên Phúc trấn bảo”, gạch lát nền cung điện, gạch xây tường thành
[2] Trần Thị Vinh (chủ biên) (2017), Lịch sử Việt Nam tập 2, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
Các cụm tháp được xây dựng theo chiều kim đồng hồ
Trong văn hóa của người Chăm Pa, việc xây dựng đền thờ bắt buộc cửa chính phải hướng về phía Đông để đón ánh sáng mặt trời. Tuy nhiên, tại Thánh Địa Mỹ Sơn lại có đến 5 cụm tháp có cửa chính được xây theo hướng Đông Nam.
Theo các nhà nghiên cứu khảo cổ học cho biết, do quá trình hoạt động đứt gãy đã làm thay đổi hướng cửa chính của các cụm tháp. Thay vì xây theo hướng quy định, các cụm tháp tại Thánh Địa Mỹ Sơn lại bị điều chỉnh hướng theo chiều kim đồng hồ.