Giấc Mơ Đầu Đời
Theo Tổ chức Giấc ngủ Quốc gia Hoa Kỳ (NSF), chúng ta đều ngủ mơ hàng đêm, nhưng hầu hết thời gian bạn không nhớ gì về chúng. Tuy nhiên cũng có lúc bạn nhớ được chi tiết mọi diễn biến trong giấc mơ vừa trải qua. Nhiều người mới chỉ gặp hiện tượng này một lần, nhưng không ít người từng trải nghiệm nhiều lần, thậm chí hàng ngày.
Làm gì để hạn chế ảnh hưởng của vivid dream?
Để giảm tần suất của vivid dream, điểm mấu chốt là duy trì sinh hoạt điều độ và không để cơ thể bị stress quá nặng. Bạn có thể tham khảo các cách sau:
Rèn “nếp ngủ” lành mạnh: Cố gắng ngủ theo một giờ cố định. Tránh ăn quá no và tiêu thụ caffeine/đồ uống có cồn trước khi ngủ. Bên cạnh đó, nên hạn chế sử dụng điện thoại và đảm bảo môi trường trong phòng đủ tối, yên tĩnh và mát mẻ.
Duy trì tinh thần thoải mái: Bạn có thể thử tập thở sâu, thiền định, yoga hay kỹ thuật dẫn dắt hình ảnh. Nên đảm bảo bạn có thể dành ra một khoảng thời gian trong ngày để nghỉ ngơi, tránh cảm giác quá tải.
Liệu pháp tưởng tượng diễn tập (imagery rehearsal therapy): Nếu gặp ác mộng thường xuyên do sang chấn tâm lý trong quá khứ, bạn có thể thử liệu pháp này dưới sự hướng dẫn của chuyên gia tâm lý. Theo đó, bạn sẽ tự tưởng tượng phần kết của cơn ác mộng thành những điều tốt đẹp khi nhớ lại, cho đến khi chúng không còn gây ám ảnh.
Khi biết tin mẹ có bầu, lại con trai, thì dường như hết thảy tâm trí sức lực của mẹ và mọi người đã dồn sang việc chăm sóc cho “em bé”. Thực tình thì tôi cũng rất háo hức với việc sắp có em bé và muốn quan tâm đến mẹ, nhưng tôi không làm được. Những lúc mẹ khom người để vệ sinh cho tôi, gương mặt xanh xao thoáng nhăn nhó, tôi muốn đưa bàn tay nhỏ xíu của mình lên xoa vào bụng mẹ, vỗ về trò chuyện với em bé như bố vẫn làm nhưng đôi bàn tay của tôi cứ thõng thượt mềm oặt như cọng dưa héo. Tôi chỉ biết nhìn mẹ đăm đắm, cảm giác vừa tủi thân vừa áy náy hối lỗi. Sắp mười tuổi mà tôi vẫn chưa thể bày tỏ được tình cảm yêu thương với mẹ, dù chỉ một hành động nhỏ nhoi như thế.
Cứ cuối tuần bà ngoại lại lóc cóc đi xe ôm mang đến cho mẹ khi thì chục trứng gà so cùng mấy quả trứng ngỗng, lúc thì con cá chép với mớ tôm đồng còn tươi roi rói. Bữa cơm nào bà nội cũng săm soi từng món ăn, đánh giá mức độ bổ dưỡng hay nguy hại để nài ép hoặc ngăn cản việc ăn uống của mẹ. Bố thì mang về những cuốn sách chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ mang thai. Trong bữa ăn tối, mọi người nói chuyện về việc chọn tên để đặt cho em. Mẹ uể oải ăn bát gà ác tần thuốc bắc bà nội đã hì hụi làm từ chiều. Nhưng chỉ được mấy phút, mẹ bưng miệng chạy nhào về phía nhà vệ sinh, nôn ói và ho sặc sụa. Bố hỏi với vào: có sao không em? Ông nội buông đũa thở dài. Có tiếng xả nước xoe xóe. Mẹ đi lướt qua tôi, tôi thoáng ngửi thấy mùi ngải cứu nồng nồng còn vương theo. Mẹ trở lại bàn ăn rồi cắm cúi ăn tiếp như thể sợ bà nội mắng. Cả nhà lại tiếp tục ăn uống. Bà nội phàn nàn rằng có khi con gà ác mà bà ngoại gửi lên còn non nên gây tanh, vì thế mẹ mới bị ói ra nhanh như thế. Ông nội tặc lưỡi, cứ ăn được cơm là chắc dạ nhất, các thức không ăn được thì đừng cố. Bố thì bảo mai sẽ gọi điện nhờ bác Tâm mua thêm mấy loại thuốc bổ cho mẹ uống, cả thuốc chống nôn nữa, chứ ăn gì nôn ra hết thế thì vừa phí của mà lại hại người.
Cả nhà ăn xong, bố giúp mẹ dọn dẹp. Bà nội mang túi cam mà hồi chiều bà ngoại gửi lên, tẩn mẩn ngồi gọt và bày ra chiếc đĩa sành. Ông nội nhón lấy một múi rồi đi về phía chiếc cũi, cúi xuống đặt vào miệng tôi miếng cam đã gảy sạch hạt. Tôi mút mút miếng cam, vị nó hơi chua, tôi nhăn mặt, khẽ lắc lắc đầu. Ông biết ý, không cố bắt tôi ăn như bà nội vẫn làm. Bà hay bảo mẹ phải cho tôi ăn nhiều cam thì mới bớt được những đốm phát ban li ti sau lưng. Ông vừa trò chuyện với tôi vừa buộc lại quả bóng bay màu cam xuống gần với tôi hơn. Quả bóng ấy ông mang về cho tôi từ tuần trước. Dưới bóng đèn điện vàng vọt, màu nó sậm lại, đỏ nhờ nhợ như màu máu. Tôi rất sợ quả bóng ấy nhưng ngày ngày vẫn phải nhìn thấy nó phất phơ trên đầu. Trông nó như một giọt máu khổng lồ. Và tôi cứ tưởng tượng nếu chẳng may nó vỡ, tôi sẽ bị ngập ngụa trong một mớ hỗn độn nhầy nhụa đỏ ối. Tôi chỉ mong sợi dây bị đứt, quả bóng sẽ bay tuột ra ngoài cửa, bay qua vòm cây xanh mướt trước nhà, biến mất vào khoảng không vời vợi. Và bố sẽ thay vào đó một quả bóng bay hình con mèo con thỏ màu xanh mà tôi từng được trông thấy trên ti vi.
Buộc xong quả bóng bay, ông tần ngần đứng nhìn tôi một chút rồi lặng lẽ đi về phía tấm phản gỗ giữa nhà, nơi bà nội đã để sẵn những cuốn Kinh Địa tạng dày cộp. Ông bà thường rì rầm đọc kinh ngay sau bữa ăn tối. Mùi hương trầm vấn vít thơm dìu dịu lan tỏa khắp ba gian nhà. Trong lúc ông bà đọc kinh, mẹ thường ngồi xuống sàn nhà, tựa lưng vào tường, thò tay qua thanh chắn cũi, mân mê bàn tay nhỏ xíu của tôi. Tay mẹ lành lạnh, ấp một lúc vào tay tôi mới ấm dần lên. Tôi chờ đợi mẹ quay lại cười hỏi chuyện tôi như mỗi chiều mẹ đi làm về. Nhưng không. Dường như mẹ muốn giữ sự im lặng tuyệt đối trong lúc ông bà đọc kinh. Gương mặt mẹ lặng phắc như một pho tượng cổ, chỉ có những nhịp thở phập phồng nặng nhọc. Ông bà tụng kinh xong, một hồi chuông mõ rộn vang, mẹ như sực tỉnh, uể oải chống gối đứng dậy, khom người bế tôi ra khỏi cũi đi về căn buồng bên trái của bố mẹ.
Từ cách đây một tháng, buổi tối bà nội bế tôi sang gian buồng bên phải ngủ cùng bà. Bà bảo mẹ phải tách dần tôi ra cho quen kẻo ít bữa nữa có em bé, tôi lại khiến mẹ vướng bận, cai ngủ có khi còn khó hơn cả cai sữa, cứ rịt hơi mẹ rồi lại khổ. Dù vậy, khoảng giữa đêm, chỉ cần nghe tiếng ậm ọe của tôi, mẹ vẫn trở dậy sang với tôi, lúc thì pha cho tôi một bình sữa, khi thì cho tôi đi vệ sinh. Rồi mẹ khẽ khàng đặt tôi nằm xuống bên cạnh bà. Bà quờ tay vỗ nhẹ vào lưng tôi, bàn tay khô ráp của bà cầm lấy bàn tay nhỏ xíu của tôi xoa xoa nắn nắn. Lát sau, bàn tay bà lỏng dần, bà quay ra thở đều đều. Tôi thì vẫn thức chong chong, thi thoảng nghe thấy tiếng mẹ rên khe khẽ vọng lại từ buồng bên kia. Hình như mẹ đau lưng hay có khi em bé đạp mạnh khiến mẹ đau cả bụng nữa. Tôi vẫn nhớ hơi mẹ lắm. Có đứa trẻ nào lại muốn “cai” mẹ đâu.
Chiều nay bà nội đang cho tôi ăn thì bố gọi điện về. Bà vội vàng đặt tôi vào cũi rồi quày quả xách túi đồ đã chuẩn bị sẵn đi theo bác Tấn xe ôm đầu xóm. Buổi tối, tôi ngủ cùng ông nội trên tấm phản gỗ kê giữa nhà. Có vẻ như lạ giường, tôi không ngủ được, cứ xoay qua xoay lại, trườn mình ra khỏi tấm nệm mỏng. Mặt phản lạnh và cứng ngắc khiến lưng tôi ê ẩm đau, tôi ri rỉ khóc, tiếng khóc yếu ớt như tiếng mèo kêu. Ông trở dậy, bế tôi đặt nằm gọn lại trong tấm nệm dài hơn một mét ấy. Sợ tôi ngọ ngoạy lại trườn xuống phản, ông chèn thêm chiếc gối dài và con búp bê nhỏ. Rồi ông đi pha sữa. Ông vừa đặt núm bình vào miệng tôi thì tôi giật mình khóc ré lên. Sữa nóng quá. Nước mắt nước mũi tôi giàn giụa. Ông luống cuống đi lấy cho tôi chén nước lạnh. Ông lập cập rót sữa ra chiếc bát con, thổi cho nguội bớt rồi nâng tôi dậy, bón cho tôi từng thìa. Sữa ông pha đặc khé nhưng tôi vẫn cố nuốt để ông yên tâm dù không thấy đói. Bàn tay ông run run khiến sữa thi thoảng lại rây rớt ra má ra cổ khiến tôi có cảm giác nhính nhớp khó chịu. Nếu bình thường mẹ sẽ để sẵn một chiếc khăn ướt bên cạnh để lau cho tôi nhưng ông thì chắc không nhớ ra điều đó.
Ông bảo: bà và bố ở lại bệnh viện với mẹ. Tôi mở to đôi mắt nhìn ông tỏ vẻ lo lắng. Ông cười trấn an rằng mẹ sắp sinh cho tôi một em trai, nhà mình sẽ có người nối dõi, thiên hạ sẽ chẳng ai dám bảo nhà mình vô phúc nữa. Ông khẽ vuốt mái tóc lưa thưa của tôi, bàn tay khô ráp nắn nắn đôi chân tong teo của tôi. Tôi thở phào, cố cử động khuôn miệng và cặp mắt tỏ vẻ phấn khích. Tôi vui lắm. Vì tôi sẽ không phải chơi một mình nữa. Bố sẽ đặt em bé vào cũi ngồi chơi cùng tôi, gắn mấy bánh xe vào chân cũi để bà đẩy hai chị em ra ngoài ngõ, đi chơi đây đó quanh các nhà trong xóm. Mọi người sẽ khen tôi xinh như búp bê, bảo hai chị em giống nhau như hai giọt nước, khen mẹ tôi khéo sinh đủ nếp đủ tẻ… Rồi em trai tôi sẽ biết ngồi, biết đứng, biết đi. Em sẽ mở cũi dắt tôi ra sân. Tôi lò dò từng bước đi theo em. Hai chị em hòa cùng vào đám trẻ hàng xóm chơi bán đồ hàng, chơi kình nhau, chơi trốn tìm. Rồi lớn lên, hai chị em đi học, tôi sẽ có người che chở bảo vệ.
Tôi cứ miên man tưởng tượng ra viễn cảnh vui vẻ ấy mà chẳng thể ngủ được, cứ ngọ ngoạy, xoay qua xoay lại. Ông nội tưởng tôi hờn lẫy vì nhớ mẹ nên cứ vỗ về, rì rầm kể những câu chuyện cổ tích mà tôi tưởng như đã thuộc lòng. Thi thoảng thấy mẹ kể truyện cổ tích cho tôi nghe, bà nội lại bảo đó là những câu chuyện hoang đường. Làm gì có chuyện người chết rồi mà chỉ cần vảy mấy giọt nước thần là sống lại được. Ngay như tôi đây, bà đã tốn mất bao nhiêu tiền của, chỉ mong tôi ngồi dậy đứng dậy và cười nói được như những đứa trẻ khác mà sao khó khăn đến thế.
Tôi cố gắng ậm ọe để cắt ngang câu chuyện ông đang kể. Dường như ông hiểu được suy nghĩ của tôi, ông vỗ về: “Hôm nay ông kể chuyện khác cho Bống nghe nhé!” Và ông kể về những năm tháng đi chiến đấu của mình. Hình như đây là lần thứ hai ông kể. Lần trước ông mới chớm kể thì bà gạt đi. Ông nói chuyện chiến tranh thì con bé làm sao mà hiểu được, chỉ có tôi thấy đau lòng thôi... Ông ngừng bặt và không bao giờ đả động lại chuyện ấy nữa. Vậy mà chẳng hiểu sao hôm nay ông lại kể. Ông kể như tâm sự trút bỏ nỗi niềm, lại như nhen nhóm hi vọng. Ông kể về những nơi mình từng ở, từng đi qua. Từng khúc suối quả đồi cứ lần lượt hiện lên trong nỗi niềm thao thiết, hoang hoải bất an. Những con suối trong vắt nhìn thấy đáy mà chẳng hề có con cá hay cọng rong rêu nào. Những quả đồi cây cối khô cháy tàn lụi sau mỗi đợt ném bom. Những người đồng đội của ông nước da xanh tái, tóc cứ rụng cả mảng...
Sau chiến tranh, ông trở về nguyên vẹn lành lặn. Ai cũng bảo ông may mắn so với biết bao người nhập ngũ cùng đợt. Ông nên duyên với bà, cô công nhân nhà máy dệt xinh đẹp hoạt bát. Nhưng ông bà hiếm hoi, chỉ sinh được duy nhất bố tôi sau mấy năm ngằm ngặp đợi chờ. Sau bố, bà có mang thêm mấy bận nữa nhưng đều không giữ được. Ơn trời, bố tôi khỏe mạnh, ngoan ngoãn, học hành giỏi giang tấn tới nên ông bà cũng mừng lòng. Bố lấy mẹ, người bạn học cùng lớp đại học, người ở huyện dưới. Nhưng rồi bi kịch “muộn mằn, hiếm hoi” lại lặp lại. Trước khi sinh được tôi, mẹ đã phải bỏ mất “hai đốt”. Bao nhiêu lời khẩn cầu tha thiết của bà nội thấu tỏ khắp các đền phủ quanh vùng, bao nhiêu hi vọng gửi gắm vào những thang thuốc an thai nhưng cũng chẳng thể giữ được sinh linh bé nhỏ ở lại trong mẹ. Cả hai lần, cứ mang thai được vài tháng, sau một cơn đau bụng quằn quại, những sinh linh bé nhỏ lại trôi ra theo dòng lũ đỏ ối. Chỉ còn nỗi đau ở lại cùng những dòng nước mắt mặn chát. Mẹ cứ gầy rớt như tàu lá.
Năm năm sau ngày cưới, mẹ mới sinh được tôi. Cả nhà chăm bẵm tôi lắm. Nhưng tôi chẳng theo đúng cái cữ “ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò, chín tháng lò dò biết đi” như mọi người mong đợi. Hai tuổi, tôi vẫn không thể ngồi lên được, chỉ có thể nhúc nhích trườn bò chậm chạp trong khoảng chật hẹp của chiếc cũi mà ông nội đã cặm cụi đóng từ những thanh tre thanh gỗ vót nhẵn hín. Bố mẹ mang tôi đi khắp các bệnh viện nhưng tôi vẫn chẳng cải thiện được là bao. Mười tuổi, tôi vẫn trong hình hài đứa trẻ lên bốn, chỉ giao tiếp với mọi người bằng ánh mắt vời vợi đăm đắm và nụ cười nhệch nhạc. Mỗi năm vào ngày sinh nhật tôi, mẹ làm một mâm cơm tươm tất mời bà ngoại lên, có lần bác Tâm cũng về. Mọi người ăn uống và chuyện trò dè dặt.
Tôi thấy ông nội nhẩn nha uống rượu. Hàng ngày, rất ít khi ông uống rượu như thế. Mặt ông đỏ bầm lại. Rồi ông lảo đảo đi ra ngồi phịch xuống tấm phản, tiếng thở dài của ông lọt thỏm trong tiếng ti vi đang phát chương trình kỉ niệm ngày Thương binh liệt sĩ.
Giờ mẹ sắp sinh được em trai. Vậy là gia đình tôi sắp đón một niềm vui lớn. Chắc ông bà không còn phải tụng kinh mỗi tối. Căn nhà ba gian hai chái sẽ bớt đi những tiếng thở dài. Bố bảo sẽ cơi thêm khoảnh hiên phía buồng của bố mẹ, trổ rộng thêm cửa sổ hướng đông cho ánh nắng tràn vào vì nắng buổi sớm rất tốt cho trẻ nhỏ. Bà nội hưởng ứng. Ừ, thay đổi cả hướng giường ngủ nữa, biết đâu lại sòn sòn thêm vài đứa ấy chứ…
Tôi lơ mơ ngủ. Trong giấc mơ, tôi thấy quả bóng bay màu cam treo ở đầu cũi của mình đứt dây và bay ra cửa, vướng vào bụi hoa hồng đầu hiên, tiếng vỡ giòn tan như tiếng cười, những mảnh vụn đậu lên cành lá hóa thành những bông hoa rực rỡ…
Mấy hôm sau, mọi người đưa mẹ từ bệnh viện phụ sản về. Tôi cố phát ra những âm thanh quen thuộc để gây sự chú ý của mọi người. Nhưng dường như chẳng ai để ý đến tôi. Bố dìu mẹ vào trong buồng. Bà nội ôm một “bọc vải” gọn lỏn trong vòng tay còn bà ngoại thì xách cái làn tã lót đi sau. Tất cả im lặng. Có vẻ như mẹ còn đau lắm. Tôi thấy mẹ vừa đi khom lưng vừa thút thít khóc. Bà ngoại cũng sụt sùi theo. Bà nội bế “bọc vải” vào trong buồng cho mẹ rồi quay ra ngoài thắp hương lên ban thờ gia tiên. Bố và ông ngồi lặng phắc trên tấm phản gỗ. Chỉ có tiếng thở dài khiến căn nhà như rộng thêm ra.
Tôi xoay người bên trái lại xoay qua bên phải, ậm ọe như muốn hỏi. Sao mọi người không vui khi mẹ trở về? Chẳng phải mấy hôm nay cả nhà bận rộn sắm sửa đưa mẹ đến bệnh viện để sinh em trai hay sao? Nhưng tôi không thể cất được thành lời. Cũng không ai có ý định trả lời cho tôi. Chỉ có khói hương vấn vít làm đỏ mắt bà nội. Ông nội ho khan rồi rót nước uống nặng nhọc như cố nuốt trôi một thứ gì nghẹn trong cổ họng. Trong buồng, tiếng bà ngoại dỗ dành, mắng vốn mẹ. Đừng khóc nữa, kẻo bị hậu sản thì khổ lắm…
Trên ban thờ, khói hương nghi ngút. Ở giữa là tấm ảnh của cụ ông và cụ bà. Bát hương gia tiên đặt trên kệ tam cấp, vồng lên những tàn hương màu khói, ở dưới là mấy chiếc bát hương nho nhỏ. Đó là những bát hương dành cho “cô bé, cậu bé tại gia”, những sinh linh phải hóa kiếp khi chưa kịp chào đời.
Trên giường của bố mẹ luôn có thêm hai chiếc gối con con. Có lần thấy bố lấy chúng để chèn hai bên người cho tôi nằm ngay ngắn, bà nội đã mắng té tát. Bà bảo hai cái gối đó là của “hai cậu bé tại gia”, lúc nào cũng phải đặt ngay ngắn ở phía trên kẻo “các cậu” giận mà quấy rầy bố mẹ, trêu chọc cả “em bé” nữa. Mẹ thì có vẻ rất sợ hai chiếc gối nhỏ xíu có những sợi tua rua kim tuyến ấy. Mẹ thường để gọn trên đầu giường về phía bố vẫn nằm, phủ lên trên bằng tấm khăn màu xanh nhạt. Nhưng có lần tôi thấy mẹ vùi mặt vào đó khóc nức nở. Ấy là cái lần mẹ mang tôi từ bệnh viện về sau đợt điều trị dài nhất.
Ngày đầy cữ của em bé trùng với sinh nhật của tôi, lại đúng vào chủ nhật nhưng chẳng có khách khứa nào được mời đến ngoài bà ngoại và bác Tâm, chị gái cả của mẹ đang làm y tá bệnh viện trên Hà Nội. Lạ quá, tôi nhớ bố từng bảo bao giờ đầy cữ em bé thì sẽ tổ chức liên hoan thật to, mời hết cả các bác bên ngoại và đồng nghiệp đến cơ mà. Sao nhà lại lặng ngắt thế này? Chỉ có bác Tâm và bố tất bật từ bếp lên nhà chuẩn bị các thứ đồ lễ. Bà ngoại giúp bà nội ngồi sắp xếp bày biện vàng mã, hoa quả và đồ cúng chúng sinh. Thi thoảng bà nội lại tặc lưỡi: chả còn biết thiếu thứ gì không kẻo các ngài lại quở chết. Thôi thì thành tâm là chính…
Ba giờ chiều, ông thầy cúng mới về tới nơi. Nghe nói ông ấy ở tận Hòa Bình, bà nội phải cất công lên tận nơi khẩn khoản mới mời được về. Ông thầy ngó nghiêng săm soi một hồi và gật gù: gia chủ cứ thành tâm lễ cho mát mẻ, bề trên thấu tỏ ban phước, rồi sẽ được con đàn cháu đống. Trên ban thờ, khói hương cuộn thành từng vòng mờ mờ ảo ảo. Dưới tấm phản gỗ bày la liệt xôi chè oản quả, năm ông ngựa đủ màu, những bức hình nhân mỏng dính, những bộ quần áo giấy sặc sỡ và rất nhiều xấp tiền vàng xanh đỏ. Trên chiếc chiếu hoa trải giữa nhà, ông thầy cúng mặc bộ quần áo màu vàng xuộm rộng thùng thình. Bên cạnh, ông bà nội ngồi chắp tay nghiêm cẩn. Phía sau, bố mẹ tôi cũng ngồi đăm chiêu. Mẹ như lọt thỏm trong chiếc áo gió màu đỏ sậm. Lại là màu đỏ giống như màu máu khiến tôi chờn chợn. Tôi khẽ cất tiếng ậm ọe để gọi mẹ nhưng dường như mẹ không nghe thấy vì hai lỗ tai đang nhét hai đụn bông nhỏ. Có vẻ như mẹ vẫn đau. Thi thoảng mẹ hơi khom lưng, khẽ nhăn mặt cố nén những tiếng xuýt xoa khe khẽ sau cặp môi trắng bệch. Tiếng chuông mõ bắt đầu rộn lên. Khô khốc. Bấn loạn. Tiếng ông thầy cúng đều đều như tiếng tụng kinh hàng ngày của ông bà nội. Nhưng tôi nghe như có gì đó nghèn nghẹn, nhưng nhức, tức tưởi.
Sau một hồi chuông mõ hối hả, ông thầy cúng quay sang bà nội nói gì đó. Bà quay sang bố. Bố đứng dậy đi vào buồng ôm ra cái “bọc vải” và cả hai chiếc gối nhỏ có những sợi tua rua kim tuyến đặt vào lòng mẹ. Rồi bố đến bên chiếc cũi, bồng tôi dậy và tiến lại ngồi sát bên mẹ. Bố sửa lại cái yếm của tôi cho ngay ngắn. Ông thầy cúng xoay người, tay cầm ba que hương đang cháy dở huơ huơ lên mặt bố mẹ tôi và dừng lại trước mặt tôi. Những đốm lửa đỏ rực. Khói hương ngun ngút khiến tôi hắt hơi mấy cái liền, nước mắt nước mũi giàn giụa. Có một chút tàn hương rơi xuống má tôi bỏng rát, tôi muốn đưa tay gạt nó đi mà không thể. Chắc bố cũng chẳng để ý. Tôi phải nghiêng đầu sang một bên cho nước mắt chảy xuống để làm mát chỗ bỏng rát ấy.
Những đốm lửa vẫn nhảy múa trên tay ông thầy cúng. Bố bế xốc tôi lên. Tôi cố nhướn người để nhìn sang “bọc vải” đang nằm gọn trong lòng mẹ. Ngực tôi chợt như tắc nghẹn. Một khuôn mặt bé xíu và đỏ au như quả táo lọt thỏm trong chiếc mũ vải. Một chiếc miệng nhỏ xíu xinh xắn. Chiếc mũi bé hin hin đáng yêu. Nhưng ở chỗ lẽ ra là một đôi mắt he hé mở lại chỉ là hai cục thịt nhỏ xíu trũng xuống xám xịt. Tại sao em tôi lại như thế này?
Tay chân tôi yếu ớt, thân thể tôi bấy bớt, tôi chẳng thể nói cười như những đứa trẻ khác. Nhưng mọi người vẫn bảo tôi có khuôn mặt đẹp như búp bê với một đôi mắt biết nói. Nhiều lần mẹ bế tôi lại gần chiếc gương cạnh cửa sổ. Tôi nhìn thấy mình trong gương. Mắt tôi giống mắt mẹ, đen láy và tròn xoe. Bố bảo ngày trước mẹ đẹp nhất khoa, rồi mai này lớn lên tôi cũng sẽ xinh đẹp như mẹ.
Còn em trai của tôi, em cũng đẹp như một chú búp bê nhỏ. Nhưng sao em lại không có đôi mắt giống mẹ. Không có mắt thì làm sao nhìn thấy mọi người? Không có mắt thì làm sao đọc được những vui buồn trong mắt mẹ? Làm sao thấy được mẹ đẹp như một pho tượng cổ mỗi lúc im lìm ngồi nghe ông bà nội tụng kinh?
Ông thầy cúng đưa cho ông nội tôi cụm hương đang cháy dở, ra hiệu cắm lên ban thờ. Ông nội lật đật làm theo. Bà nội sì sụp khấn vái. Lại một hồi chuông mõ rộn lên hối hả. Mẹ ôm “bọc vải” thẫn thờ đi vào buồng.
Bố đặt tôi vào cũi rồi cùng bà nội bê hết đám vàng mã ra sân. Những lưỡi lửa liếm nhanh trên những tấm hình nhân mỏng dính. Lửa cháy sáng rực cả góc sân. Ông thầy cúng cầm cút rượu tưới lên đám tro tàn rồi vội vã xin phép đi luôn vì xe đã đợi sẵn. Ông nội tiễn khách ra tận cổng rồi thập thững đi vào, một tràng ho khô khốc như cứa vào chiều chạng vạng.
Buổi tối, bà ngoại và bác Tâm ở lại ăn cơm cùng gia đình. Bác Tâm gỡ quả bóng bay màu cam ra khỏi chiếc cũi của tôi vì nó đã bị xẹp, thay vào đó một hình ngôi sao màu xanh nhạt. Rồi bác bế tôi vào ngồi cùng mâm với mọi người. Bác vừa nắn nắn đôi chân tong teo của tôi vừa bảo: “Dì Thanh cứ giữ gìn sức khỏe để chăm sóc bé Bống và cu Tí. Còn chú Kiên cố gắng dành dụm tiết kiệm, lần sau đi khám sàng lọc cẩn thận. Kĩ thuật y tế giờ tiến bộ, sẽ có nhiều hi vọng…”
Bữa cơm diễn ra chóng vánh. Mẹ đi vào buồng với em bé. Bác Tâm đưa tôi cho bà ngoại ẵm để phụ giúp bố tôi dọn dẹp mâm bát. Bà ngoại ôm lấy tôi vỗ về: có đầu có đuôi nuôi lâu cũng lớn, cháu bà xinh như búp bê thế này cơ mà…
Tay chân tôi cựa quậy phấn khích, mắt tròn xoe, miệng mấp máy muốn cười.
Rồi tôi sẽ có những đứa em lành lặn, xinh xắn…
Trên ti vi đang phát chương trình về ngày Thương binh liệt sĩ. Bà nội nhắc ông vặn nhỏ lại để chuẩn bị đến giờ tụng kinh…
Trong khi cộng đồng người Việt ở Angola cũng như đồng bào trong nước chưa hết bàng hoàng trước những hành vi lừa đảo xuất khẩu lao động (XKLĐ) sang làm gái mại dâm Angola, rồi những cái chết đột ngột của anh Nguyễn Đức Cao và anh Nguyễn Công Nguyên đều ở Nghệ An, thi thể đã được đưa về quê nhà mai táng vào đầu tháng 4, thì mới đây, cũng trên địa bàn tỉnh Nghệ An lại có thêm những cái chết thương tâm khác. Đó là anh Phan Văn Sơn (SN 1973, trú tại xóm Phúc Long, xã Hưng Tây, Hưng Nguyên), anh Trần Nam Tuấn (42 tuổi) trú phường Lê Lợi (TP Vinh) và anh Hồ Cảnh Sơn (45 tuổi) ở xã Quỳnh Lương (Quỳnh Lưu). Phía sau những cái chết thương tâm ấy có biết bao hệ lụy. Về “điểm nóng”, xã Hưng Tây, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, mới thấy được phần nào của thực trạng này.
Những ngày qua, tin dữ anh Phan Văn Sơn bị tử vong tại Angola khiến không khí u ám, nặng nề bao trùm xóm đạo vốn thanh bình, yên ả.
Trong căn nhà tuềnh toàng nghi ngút hương khói của người xấu số ở thôn Phúc Long, sau những đau đớn tột cùng, sự im ắng, lặng lẽ khiến không khí càng thêm tang thương. Trên chiếc giường ọp ẹp, cơ thể chị Nguyễn Thị Mai, vợ anh Phan Văn Sơn gần như khô quắt, bất động.
Xót xa nhìn em, Nguyễn Thị Xuân, chị gái chị Mai nói trong nước mắt: “Bữa nghe tin chồng mất, dì Xuân hoàn toàn suy sụp, cả tuần qua, có ăn chi mô, chỉ uống tí sữa. Nhà tôi sốt ruột quá mới truyền cho chai nước. Bây giờ dì ấy không biết chi cả, chỉ nằm rứa thôi”.
Theo thông tin của Đại sứ quán Việt Nam tại Angola, hiện có khoảng 40.000 người Việt đang sinh sống và làm việc ở Angola, tập trung chủ yếu tại thủ đô Luanda. Trong đó, chiếm một tỷ lệ không nhỏ là lao động chui, sang Angola bằng visa du lịch có thời hạn 3 tháng, sau đó tìm cách chạy chọt để chuyển thành visa lao động và lao động hết hạn cư trú bất hợp pháp. Hầu hết lao động đều phải đi qua các đường dây môi giới với chi phí bình quân 6.500 USD/người.
Cũng theo thông tin của Đại sứ quán Việt Nam tại Angola, dù các cơ quan chức năng của Angola không nắm được số lượng chính xác, song cũng khẳng định rất nhiều lao động Việt Nam đang làm việc trái phép, nhất là trong lĩnh vực xây dựng. Angola không cho phép người nước ngoài vào bằng visa du lịch rồi chuyển đổi sang visa lao động.Nghe người lớn nói chuyện, cháu Phan Thị Linh, 10 tuổi, con gái đầu của anh chị nức nở: “Bố cháu chỉ đi làm kiếm tiền nuôi các cháu thôi mà... sao bố cháu lại chết? Các bác, các cô đưa bố về với cháu, cháu muốn được nhìn bố”.Lời con trẻ khiến lòng ai nấy đều quặn thắt, mắt những người phụ nữ ở xóm đạo lại thêm 1 lần đỏ hoe. Nhìn cảnh nhà chị Mai họ cũng nóng lòng như ngồi trên đống lửa. Không lo sao được khi mà chỉ tính riêng thôn Phúc Long cũng có tới 40-50 người đang làm việc tại Angola.
Đáp lại lời lay gọi của người thân, phản xạ duy nhất của chị Mai là nấc lên mấy tiếng rồi lại ngất lịm. Chị Xuân cho biết, em gái mình kết hôn với anh Phan Văn Sơn năm 2002 và sinh được 2 cháu gái. Hai bên gia đình đều khó khăn, chẳng giúp đỡ được gì nên anh chị rất chịu khó làm lụng, thế nhưng lúc nào cũng ở diện cận nghèo.
Năm 2011, thấy bà con thôn xóm ùn ùn đi XKLĐ sang đất nước Angola xa xôi với lời cam kết chắc như đinh đóng cột của một người tên Sứ chuyên chạy XKLĐ sang Angola ở xã kế bên, anh quyết định thế chấp sổ đỏ, vay mượn khắp nơi. “Chú ấy vay ngân hàng 140 triệu đồng, vay thêm anh em 40 triệu, đi 26/12/2011. Sang đó được 3 ngày thì báo về là làm việc cho 1 chủ thầu ở Hà Tĩnh. Lương tháng 1000 USD, nhưng sang đó thì bị ốm”, chị Xuân kể.
Sau 1 năm ở vùng khí hậu vô cùng khắc nghiệt, nhiều người bị ốm đau, tử vong, đầu năm nay anh Sơn quyết định chuyển đổi nơi làm việc. Tuy nhiên, khi công việc mới ổn định thì ngày 12/4, gia đình nhận được hung tin anh bị đột tử.
Nỗi đau mất người thân đã quá lớn lại càng trở nên bế tắc khi số tiền để chuyển xác anh Sơn về nước lên tới 700 triệu đồng. Là hàng xóm tối lửa tắt đèn, nhìn gia cảnh chị Mai lúc này, chị Trương Thị Hải không cầm được nước mắt: “Gia đình chị Mai khó khăn lắm. Chồng gửi tiền về chị ấy tằn tiện, không dám tiêu 1 đồng, chỉ để dành trả nợ. Là hàng xóm, thương chị ấy lắm, nhưng cũng cảnh khó khăn chẳng biết giúp bằng cách chi. Chỉ cầu mong sao mọi người hỗ trợ để đưa xác anh ấy về càng sớm càng tốt. Nhưng họ nói phải 2 tháng mới đưa được xác về, số tiền khoảng 700 triệu đồng”.
Ôm rịt cậu con trai trong lòng như tìm kiếm 1 điểm tựa, chị Nguyễn Thị Quý cho biết, chồng chị, anh Hồ Văn Cường cũng đi Angola được hơn 1 năm nay theo đường dây của 1 người tên Hoa ở xã Thượng Lộc với số tiền 143 triệu đồng. Không như những gì họ cam kết, sang đó sẽ có việc làm ổn định, thu nhập cao nhưng khi đặt chân lên đất bạn, anh hoàn toàn bị bỏ rơi và không có việc làm.
Lang thang một thời gian, được sự trợ giúp của cộng đồng người Việt, anh cũng tìm được việc với thu nhập 700-800 USD/tháng. Dẫu số tiền anh Công gửi về mới trả được 1/3 tiền vay ngân hàng nhưng khi liên tục mắt thấy tai nghe những chuyện dữ từ Angola truyền về, chị Quý chỉ có 1 mong muốn: “Nghe tin anh Sơn, tôi như ngồi trên đống lửa, không ăn ngủ được. Tôi chỉ mong anh về, về làm lụng trả sau cũng được nhưng anh bảo về nhà không biết làm chi cho vợ con, lại ôm nợ nên anh không về. Do nhận thức kém, thấy người ta nói ngon nói ngọt chỉ biết tin tưởng, vay mượn để đi. Chừ biết là dại, là lỡ rồi. Trời cho sống ngày mô biết ngày đó”.
Ở Phúc Long, nhà nào ít thì 1, nhà nào nhiều thì có tới vài người đi Angola. Như chị Dương Thị Hải, dẫu không có chồng con đi Angola nhưng trong họ hàng cũng có tới 6 người cháu, họ hàng đang làm việc ở nước này. Người đi càng nhiều thì nỗi lo như càng nhân lên trong các câu chuyện của những người phụ nữ ở thôn.
Bà Nguyễn Thị Liên hiện có 2 người con trai đang làm việc tại Angola, mới nhất là cậu út đi chưa được 1 tháng. Không biết hiệu quả kinh tế tới đâu nhưng theo bà Liên, đến thời điểm này gia đình bà vẫn còn nợ nần nhiều lắm. Lo cho an nguy của con, nhưng khi nghĩ đến khoản tiền 30 triệu đồng phải gửi sang cho con mua vé máy bay bà lại ngơ ngác. Đành tặc lưỡi phó thác cho may rủi...
Không chỉ thôn Phúc Long mà ở hầu hết các thôn xóm của Hưng Tây đều có người đang làm việc tại Angola, thậm chí có những thôn, số người đi chui XKLĐ sang thị trường này lên tới vài trăm người.
Ông Trần Văn Hiển, Phó Chủ tịch UBND xã Hưng Tây lo lắng “Khối xóm Hưng Thịnh có gần 300 lao động đang làm việc tại Angola, các xóm khác 10-20 người. Có những người đi mất nhiều tiền, trung bình là 150 triệu đồng, song chính quyền cũng không nắm được, vì chỉ cần hộ chiếu du lịch là họ đi được, có khi họ không cần vay vốn mà ông chủ, người thân đảm bảo, đi làm rồi trả sau. Tuy họ mang lại lợi ích kinh tế khá lớn nhưng không ai bảo đảm an toàn tính mạng, rủi ro rất nhiều”.
Hàng ngày, tiếp nhận những luồng thông tin dữ từ đất nước Angola xa xôi, xóm đạo ấy đã không còn yên ả nữa. Bên tháp chuông nhà thờ bóng đổ, những người mẹ, những người vợ, những đứa con đang ngày đêm trông ngóng sự trở về, sự đoàn tụ./.
Nghệ An và Hà Tĩnh là 2 địa phương có số lượng lao động đi làm việc chui tại Angola lớn nhất cả nước. Theo nguồn tin của PV VOV, ít nhất có khoảng 6000 lao động ở 2 địa phương này. Đành rằng đi XKLĐ chui là bất hợp pháp, nằm ngoài vòng bảo hộ của luật pháp, của các cơ quan chức năng, thế nhưng trước những hậu quả mà chúng ta đều nhìn thấy, đâu là giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn dòng chảy lao động sang đất nước này, trước sự an nguy của người lao động thì trách nhiệm thuộc về ai?
Sau nhiều cái chết liên tiếp của lao động Nghệ An tại Angola, mới đây, Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh Nghệ An đã có công văn gửi Phòng Lao động, Thương binh và Xã hội các huyện, thành, thị yêu cầu kiểm tra, thống kê, báo cáo số lượng lao động đi làm việc tại Angola.
Bên cạnh đó, Sở cũng có công văn yêu cầu các địa phương thực hiện đồng bộ các biện pháp tuyên truyền, nhằm ngăn chặn tình trạng tuyển chọn lao động đi làm việc tại Angola bất hợp pháp, gây thiệt hại về nhiều mặt cho người lao động.