Theo số liệu từ Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), trong 8 tháng đầu năm, có 75 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn của phía Việt Nam là 147,3 triệu USD, giảm 64,6% so với cùng kỳ năm trước.

ĐTNN 10 tháng năm 2024 theo đối tác

Các nhà ĐTNN đã đầu tư vào 55 tỉnh, thành phố trên cả nước trong 10 tháng năm 2024. Bắc Ninh dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 4,7 tỷ USD, chiếm 17,2% tổng vốn đầu tư cả nước, gấp 3,15 lần cùng kỳ. Tiếp theo là TP Hồ Chí Minh với gần 2,1 tỷ USD, chiếm 7,7% tổng vốn đầu tư đăng ký, giảm 12,7% so với cùng kỳ. Quảng Ninh đứng thứ ba với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 1,98 tỷ USD, chiếm 7,2% tổng vốn đầu tư cả nước. Tiếp theo lần lượt là Hải Phòng, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Hà Nội,…

Nếu xét về số dự án, TP Hồ Chí Minh dẫn đầu cả nước cả về số dự án mới (chiếm 41,9%) và GVMCP (chiếm 70,9%). Hà Nội dẫn đầu về số lượt dự án điều chỉnh vốn (chiếm 14,3%)

ĐTNN 10 tháng năm 2024 theo địa phương

Tính lũy kế đến tháng 10 năm 2024, cả nước có 41.501 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký hơn 492,26 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt gần 316,76 tỷ USD, bằng 64,3% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực.

(chiếm 14,7% tổng vốn đầu tư); sản xuất, phân phối điện với hơn 41,67 tỷ USD (chiếm 8,5% tổng vốn đầu tư).

[1] Đầu tư của Singapore chủ yếu là đầu tư mới và điều chỉnh vốn, chiếm tương ứng 63,8% và 26,8% tổng vốn đầu tư của Singapore trong 10 tháng.

[2] Nhà máy sản xuất, lắp ráp và thử nghiệm vật liệu, thiết bị bán dẫn (Singapore) tại Bắc Ninh điều chỉnh mở rộng dự án thêm 1,07 tỷ USD.

BÁO CÁO NHANH TÌNH HÌNH THU HÚT

ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM VÀ ĐẦU TƯ CỦA VIỆT NAM RA NƯỚC NGOÀI 08 THÁNG NĂM 2024

Tính đến 31/08/2024, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp (GVMCP) của nhà ĐTNN đạt hơn 20,52 tỷ USD, tăng 7% so với cùng kỳ năm 2023. Vốn thực hiện của dự án đầu tư nước ngoài ước đạt khoảng 14,15 tỷ USD, tăng 8% so với cùng kỳ năm 2023.

Tính lũy kế đến ngày 31/08/2024, cả nước có 41.142 dự án ĐTNN còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 491,39 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư nước ngoài ước đạt khoảng 311,33 tỷ USD, bằng 63,4% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực.

I.   VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

Tính tới hết tháng 8 năm 2024, ước tính các dự án đầu tư nước ngoài đã giải ngân được khoảng 14,15tỷ USD, tăng 8% so với cùng kỳ năm 2023.

Xuất khẩu: Xuất khẩu kể cả dầu thô ước đạt hơn 189,8 tỷ USD, tăng 13% so với cùng kỳ, chiếm 72,2% kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu không kể dầu thô ước đạt hơn 188,5 tỷ USD, tăng 13,1% so với cùng kỳ, chiếm 71,7% kim ngạch xuất khẩu cả nước.

Nhập khẩu: Nhập khẩu của khu vực ĐTNN ước đạt gần 157 tỷ USD, tăng 16,9% so cùng kỳ và chiếm 63,7% kim ngạch nhập khẩu cả nước.

Tính chung trong 8 tháng năm 2024, khu vực ĐTNN xuất siêu hơn 32,8 tỷ USD kể cả dầu thô và xuất siêu hơn 31,5 tỷ USD không kể dầu thô. Trong khi đó, khu vực doanh nghiệp trong nước nhập siêu hơn 16,5 tỷ USD.

Tính đến hết tháng 8 năm 2024, tổng vốn đăng ký mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà ĐTNN đạt hơn 20,52 tỷ USD, tăng 7% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, ngoài GVMCP giảm thì đầu tư mới và điều chỉnh vốn tăng so với cùng kỳ. Cụ thể:

Đăng ký mới: Có 2.247 dự án mới được cấp GCNĐKĐT (tăng 8,5% so với cùng kỳ), tổng vốn đăng ký đạt gần 12tỷ USD (tăng 27% so với cùng kỳ).

Điều chỉnh vốn: Có 926 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư (tăng 4,9% so với cùng kỳ), tổng vốn đăng ký tăng thêm đạt hơn 5,7 tỷ USD (tăng 14,8% so với cùng kỳ).

Góp vốn, mua cổ phần: Có 2.196 giao dịch GVMCP của nhà ĐTNN (giảm 7,8% so với cùng kỳ), tổng giá trị vốn góp đạt gần 2,81 tỷ USD (giảm 40,9% so với cùng kỳ).

ĐTNN 8 tháng năm 2024 theo tháng

Các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 18 ngành trong tổng số 21 ngành kinh tế quốc dân. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đạt gần 14,17 tỷ USD, chiếm hơn 69% tổng vốn đầu tư đăng ký, tăng 7,4% so với cùng kỳ. Ngành kinh doanh bất động sản đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư hơn 3,36 tỷ USD, chiếm gần 16,4% tổng vốn đầu tư đăng ký, tăng 77,6% so với cùng kỳ. Tiếp theo lần lượt là các ngành bán buôn bán lẻ; hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ với tổng vốn đăng ký đạt lần lượt hơn 844,9 triệu USD và hơn 761,9 triệu USD. Còn lại là các ngành khác.

Xét về số lượng dự án, công nghiệp chế biến, chế tạo là ngành dẫn đầu về số dự án mới (chiếm 34,3%) và điều chỉnh vốn (chiếm 66,1%). Ngành bán buôn, bán lẻ dẫn đầu về số lượt giao dịch GVMCP cao nhất (chiếm 41,9%).

Cơ cấu ĐTNN 8 tháng năm 2024 theo ngành

Đã có 94 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam trong 8 tháng năm 2024. Trong đó, Singapore dẫn đầu với tổng vốn đầu tư hơn 6,79 tỷ USD, chiếm gần 33,1% tổng vốn đầu tư, tăng 75,5% so với cùng kỳ 20233. Hồng Kông đứng thứ hai với 2,4 tỷ USD, chiếm 11,7% tổng vốn đầu tư, tăng 43,7 so với cùng kỳ. Tiếp theo là Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc,…

Xét về số dự án, Trung Quốc là đối tác dẫn đầu về số dự án đầu tư mới (chiếm 29,5%); Hàn Quốc dẫn đầu về số lượt điều chỉnh vốn (chiếm 24,5%) và GVMCP (chiếm 25,9%).

ĐTNN 8 tháng năm 2024 theo đối tác

Các nhà ĐTNN đã đầu tư vào 54 tỉnh, thành phố trên cả nước trong 8 tháng năm 2024. Bắc Ninh dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 3,47 tỷ USD, chiếm 16,9% tổng vốn đầu tư cả nước, gấp 2,94 lần cùng kỳ. Tiếp theo là Quảng Ninh với gần 1,78 tỷ USD, chiếm 8,7% tổng vốn đầu tư đăng ký và gấp hơn 2,3 lần so với cùng kỳ. TP Hồ Chí Minh đứng thứ ba với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 1,76 tỷ USD, chiếm gần 8,6% tổng vốn đầu tư cả nước. Tiếp theo lần lượt là Bà Rịa – Vũng Tàu, Hà Nội, Hải Phòng,…

Nếu xét về số dự án, TP Hồ Chí Minh dẫn đầu cả nước cả về số dự án mới

(chiếm 40,4%), điều chỉnh vốn (chiếm 14,6%) và GVMCP (chiếm gần 70,4%).

ĐTNN 8 tháng năm 2024 theo địa phương

2.  Nhận xét về tình hình đầu tư nước ngoài trong 8 tháng năm 2024.

3.   Tình hình ĐTNN luỹ kế tới hết tháng 8 năm 2024

II.      VỀ ĐẦU TƯ CỦA VIỆT NAM RA NƯỚC NGOÀI

Trong 8 tháng năm 2024, các nhà đầu tư Việt Nam đã đầu tư ra nước ngoài 75 dự án mới và 17 lượt điều chỉnh vốn đầu tư. Tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài đạt hơn 147,3 triệu USD (bằng 35,4% so với cùng kỳ).

Các nhà đầu tư Việt Nam đã đầu tư ra nước ngoài ở 14 ngành. Trong đó, vốn đầu tư tập trung nhiều nhất vào các ngành khai khoáng (chiếm 39,8% vốn), công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm 19,7% vốn); bán buôn, bán lẻ (chiếm 16,8% vốn). Còn lại là các ngành khác.

Có 25 quốc gia, vùng lãnh thổ nhận đầu tư của Việt Nam trong 8 tháng năm 2024. Các nước thu hút đầu tư của Việt Nam nhiều nhất lần lượt là Hà Lan (37,1%); Lào (25,7%); Anh (13,4%); Hoa Kỳ (12,7%);…

Lũy kế đến tháng 8 năm 2024, Việt Nam đã có 1.757 dự án đầu tư ra nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư Việt Nam gần 22,26 tỷ USD. Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài tập trung nhiều nhất vào các ngành khai khoáng (31,6%); nông, lâm nghiệp, thủy sản (15,5%). Các địa bàn nhận đầu tư của Việt Nam nhiều nhất lần lượt là Lào (24,7%); Campuchia (13,2%); Venezuela (8,2%);…

Biên bản ghi nhớ về hợp tác trong lĩnh vực tìm kiếm, khai thác và thăm dò dầu khí giữa Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) và Gazprom Neft vừa được ký kết nhân chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Nga Dimitry Medvedev. Theo đó, hai bên sẽ hợp tác trong lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí tại mỏ Dolginskoe, Lô Tây Bắc vùng biển Pechora, cũng như cơ hội hợp tác trong các dự án trên đất liền tại Liên bang Nga. Thêm một cơ hội để PVN tiếp tục mở rộng thị trường ở nước ngoài, sau 17 dự án đầu tư ra nước ngoài mà Tập đoàn đã và đang thực hiện, với trữ lượng thăm dò được khoảng 170 triệu tấn dầu quy đổi.

Cùng với PVN, Viettel cũng là một tập đoàn đầu tư lớn ở thị trường nước ngoài, với các dự án phát triển mạng viễn thông ở Campuchia, Lào, Mozambique, Haiiti, Tanzania... Các tập đoàn lớn của Nhà nước như Cao su, Than - Khoáng sản... cũng đã lần lượt có các dự án đầu tư ở nước ngoài. Nhưng dốc vốn mạnh nhất phải kể đến các “đại gia” Việt khác, từ Vinamilk với các dự án đầu tư ở Ba Lan, Campuchia, Mỹ... đến Hoàng Anh Gia Lai đầu tư ở Myanmar, Lào, Campuchia.

Theo lộ trình phát triển, Vinamilk đặt mục tiêu cán mốc doanh thu 3 tỷ USD và lọt vào top 50 công ty sữa lớn nhất thế giới vào năm 2017. Để đạt được mục tiêu này, Vinamilk đang tiếp tục đẩy nhanh tiến độ M&A, dồn vốn cho các dự án đầu tư ra nước ngoài để gia tăng nhanh năng lực cung cấp.

Trong khi đó, FPT, sau thương vụ mua RWE IT Slovakia vào năm ngoái, đang kỳ vọng tiến quân vào thị trường châu Âu. Đồng thời, tập đoàn này vẫn tiếp tục tấn công mạnh các thị trường Nhật Bản, Singapore, với mục tiêu đạt doanh thu 1 tỷ USD vào năm 2020 từ thị trường nước ngoài.

Ngoài các đại gia trên, các công ty An Đông Mia, Cao su Tây Ninh, Dầu Tiếng – Kratie, BKAV, Tôn Hoa Sen... cũng là những cái tên nằm trong danh sách “tân binh” doanh nghiệp Việt có đầu tư ở nước ngoài.

Xu hướng dốc vốn đầu tư ra nước ngoài sẽ tiếp tục, bởi theo dự báo của Cục Đầu tư nước ngoài, năm 2015, có khoảng 150 dự án, với tổng vốn đăng ký 1,5 - 2 tỷ USD được cấp chứng nhận đầu tư ra nước ngoài. Trong khi đó, vốn thực hiện dự kiến khoảng 1 - 1,2 tỷ USD.

Hai năm trước đây, khi lần đầu tiên Cục Đầu tư nước ngoài công bố những đồng lợi nhuận đầu tiên được các doanh nghiệp Việt Nam, như Viettel, Hoàng Anh Gia Lai... chuyển về nước, nhiều chuyên gia kinh tế đã nhắc đến chuyện đầu tư ra nước ngoài đã có những trái ngọt đầu tiên. Và kể từ đó đến nay, những thành công của Viettel, Hoàng Anh Gia Lai, FPT, Vinamilk... tại thị trường ngoại đã càng khẳng định tính đúng đắn của xu hướng này.

“Năm 2014, doanh thu từ thị trường nước ngoài của FPT đạt trên 170 triệu USD. Đã đến lúc, khi thị trường Việt Nam tới hạn, chúng tôi phải tìm kiếm các cơ hội từ bên ngoài và phải thực hiện chiến lược toàn cầu hóa”, ông Trương Gia Bình, Chủ tịch Hội đồng Quản trị FPT khẳng định.

Tuy nhiên, một câu hỏi luôn được đặt ra, đó là đầu tư ra nước ngoài thực sự đã thu trái ngọt hay chưa? Liệu có trái đắng trong câu chuyện doanh nghiệp Việt chưa hẳn đã mạnh ở thị trường nội địa mà đã vội vã vươn cánh tay ra nước ngoài?

Theo số liệu được Cục Đầu tư nước ngoài công bố, lũy kế đến ngày 31/12/2014, đã có tổng cộng 19,78 tỷ USD được các doanh nghiệp Việt đăng ký đầu tư ra nước ngoài. Số vốn giải ngân lũy kế tính đến hết năm 2014 vào khoảng 6 tỷ USD.

Trong khi đó, lợi nhuận chuyển về ước khoảng 800 - 900 triệu USD. “Với tỷ suất lợi nhuận trên vốn giải ngân khoảng 12 - 13%, tôi cho rằng đây không phải là con số cao nhưng cũng đã là tốt”, ông Vũ Văn Chung, Phó cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài bình luận.

Thêm vào đó, theo ông Chung, đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam thực sự mới chỉ phát triển mạnh từ năm 2009, hầu hết các dự án đều mang tính chiến lược, dài hạn, như trồng cao su, khai thác khoáng sản, nhiều dự án mới bắt đầu đi vào hoạt động, nên mới trong giai đoạn đầu thu lợi nhuận.

Cũng cần phải nhắc lại rằng, hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam gần đây không chỉ tăng trưởng nhanh chóng ở các thị trường truyền thống, mà còn mở rộng sang các quốc gia ở châu Mỹ La tinh, châu Phi, châu Âu, cũng không chỉ tập trung ở những ngành, lĩnh vực mà Việt có thế mạnh như nông nghiệp, công nghiệp mà sang cả dịch vụ tài chính - ngân hàng, hàng không…

Tuy nhiên, những lo ngại về “quả đắng” đầu tư ra nước ngoài cũng đã được cảnh báo, bởi trên một khía cạnh nào đó, doanh nghiệp Việt chưa đủ tiềm lực tài chính và kinh nghiệm để “chơi ngang ngửa” ở thị trường nước ngoài với đầy rẫy các luật lệ, quy định chặt chẽ.

“Nếu sơ sẩy, không nghiên cứu kỹ luật chơi toàn cầu, doanh nghiệp Việt có thể bị thua thiệt”, một vị chuyên gia nói và nhắc tới ngay cả các đại gia hàng đầu thế giới cũng có những cú sảy tay, dẫn tới phá sản.

Theo thông tin của Báo Đầu tư, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang rà soát, đánh giá lại tình hình đầu tư ra nước ngoài, để từ đó trình Thủ tướng Chính phủ thông qua đề án về thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài trong giai đoạn tới, nhằm mang lại hiệu quả thực sự của dòng vốn này.